Cơ sở lý thuyết về xây dựng chính sách marketing trực tuyến trong hoạt động kinh doanh lữ hành
Thuật ngữ Makerting xuất hiện từ rất lâu trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa, với mục đích quảng bá sản phẩm đến người tiêu dùng một cách nhanh nhất và có nhiều lợi ích từ người bán lẫn người mua. Tuy nhiên chúng ta cũng có nhiều khái niệm về Marketing khác nhau sau đây là một vài khái niệm về marketing.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH MARKETING TRỰC TUYẾN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH LỮ HÀNH
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm và lịch sử phát triển Marketing
Thuật ngữ Makerting xuất hiện từ rất lâu trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa, với mục đích quảng bá sản phẩm đến người tiêu dùng một cách nhanh nhất và có nhiều lợi ích từ người bán lẫn người mua. Tuy nhiên chúng ta cũng có nhiều khái niệm về Marketing khác nhau sau đây là một vài khái niệm về marketing.
Theo Kotler (2006): Marketing lá quá trình xây dựng và cung cấp những giá trị thiết thực đến khách hàng thông qua sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp đó, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng nhằm thu về lợi ích cao cho doanh nghiệp.
Theo hiệp hội Marketing Mỹ: Marketing là tập hợp các hoạt động và quá trình xây dựng, giao tiếp, cung cấp và trao đổi những thứ có giá trị cho khách hàng, đối tác và xã hội.
1.1.2. Khái niệm Marketing trực tuyến
Marketing trực tuyến hay còn gọi là quảng cáo trực tuyến đây là họat động tiếp thị ngày được nhiều người quan tâm ứng dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên có rất nhiều định nghĩa về marketing trực tuyến khác nhau được tập hợp từ các chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu thị trường trên thế giới:
• Theo Kotler (2007): Cha đẻ của Marketing hiện đại, marketing trực tuyến là quá trình tạo lập kế hoạch về sản phẩm, giá phân phối và xúc tiến đối với sản phẩm, dịch vụ và ý tưởng để đáp ứng nhu cầu của tổ chức và cá nhân dựa trên các phương tiện Internet và điện tử.
• Theo Chaffey (2008): Marketing trực tuyến là việc quản lí và thực hiện các hoạt động marketing bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông điện tử như website, email, iTV, các phương tiện không dây kết hợp với dữ liệu số về đặc điểm và hành vi của khách hàng.
• Theo Jones và Ryan (2009): E–Marketing là hoạt động marketing cho sản phẩm và dịch vụ bằng cách sử dụng các công cụ sẵn có của mạng Internet để tiếp cận với người sử dụng Internet.
• Theo Stokes (2008): Marketing ở trong môi trường kết nối Internet và sử dụng nó để kết nối thị trường thì gọi là marketing trực tuyến.
• Nói tóm lại marketing Trực tuyến là việc cần làm cho bất kỳ một tổ chức công ty doanh nghiệp cho dù lớn hay nhỏ nào trong giai đoạn hiện nay. Qua việc marketing chúng ta sẽ thấu hiểu khách hàng cần gì, họ bao nhiêu tuổi, họ đến từ đâu, họ thu nhập ra sao, sở thích của họ là gì. Qua đó chúng ta tiếp thị đúng đối tượng và cung cấp sản phẩm hay giá trị sản phẩm đúng nhất cho khách hàng. Bên cạnh đó cũng đem doanh thu cao nhất cho donh nghiệp và tổ chức công ty. Hay theo các quan niệm khác thì cho rằng, marketing trực tuyến là hoạt động ứng dụng mạnh mẽ vào mạng Internet nhằm đạt được các mục tiêu tổ chức và duy trì các mối quan hệ với khách hàng, nâng cao sự hiểu biết của khách hàng, các hoạt động xúc tiến nhằm tiêu thụ và bán hàng nhiều nhất.
Trong đề tài này tác giả đã dựa vào những công trình nghiên cứu khoa học và các tài liệu chính thống để nghiên cứu. Qua đó để làm cơ sở phân tích, đánh giá khách quan việc ứng dụng Marketing online trong hoạt động kinh doanh du lịch của chính công ty du lịch Chiêu tour.
1.1.3. Khái niệm về du lịch
Ngay nay du lịch du lịch là hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Các hiệp hội lữ hành trên thế giới và Việt Nam đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất trên thế giới vượt trên cả ngành sản xuất ô tô, thép điện tử và nông nghiệp. Vì vậy, du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên thế giới và ngay tại Việt Nam. Thuật ngữ du lịch trở nên khá thông dụng, nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là đi một vòng. Du lịch nó gắn liền với nghỉ ngơi giải trí, tuy nhiên do hoàn cảnh, thời gian và khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau nên khái niệm du lịch nó cũng không giống nhau:
Theo luật của du lịch Việt Nam đã đưa ra: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian xác định.
Theo UNWTO: Du lịch là các hoạt động của con người du hành, tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá, tìm hiểu, nghỉ dưỡng hoặc thư giãn trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư, nhưng loại trừ các du hành với mục đích kiềm tiền.
Tại hội nghị liên hiệp quốc tại Roma-Italia (21-5/9/1963) các chuyên gia đã đưa ra các định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải nơi làm việc của họ.
Theo các chuyên gia du lịch Trung Quốc: Hoạt động du lịch là hoạt động tổng hòa hàng loạt quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện.
Theo Pirogionic (1985): Du lịch là một dạng hoạt động của cư dân trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thương xuyên nhằm nghỉ ngơi chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa.
Chuyên gia người Áo Josep Stander: Khách du lịch là loại khách đi theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thảo mãn sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế.
Theo Mai Anh Vũ và Lê Thị Thanh Loan (2019) (Trường Đại học Văn hóa Thể thao Du lịch Thanh Hóa) đăng trên Tạp chí công thương: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ cho nhu cầu tham quan giải trí nghỉ ngơi, có hoặc không có các hoạt động chữa bệnh, thể thao, âm nhạc, nghiên cứu khoa học hay các hoạt động khác.
Dưới góc độ người đi du lịch: Du lịch là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế-xã hội của loài người đến một giai đoạn phát triển nhất định. Chỉ trong hoàn cảnh kinh tế thị trường phát triển, gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng thời gian rảnh rỗi do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phương tiện giao thông và thông tin ngày càng phát triển, làm phát sinh nhu cầu nghỉ ngơi tham quan du lịch của con người. Bản chất đích thực của du lịch là du lịch để cảm nhận những giá trị về vật chất đến tinh thần có tính văn hóa cao.
TẢI FULL TOÀN BÀI TẠI ĐÂY
1.1.4. Khái niệm về marketing du lịch
Du lịch là một lĩnh vực kinh doanh vô cùng đa dạng và cũng rất phức tạp. Do đó, cũng có rất nhiều các khái niệm khác nhau cho marketing ngành du lịch. Trên thực tế cho đến nay cũng chưa có bất kỳ khái niệm hay định nghĩa chính thức cho về marketing trong ngành du lịch. Trên quan điểm tác giả xin phép được đưa ra một số khái niệm cho marketing ngành du lịch:
Theo tổ chức du lịch trên thế giới UNWTO (2003): Maketing du lịch là triết lý quan trị, mà nhờ đó tổ chức du lịch nghiên cứu, dự đoán và lựa chọn dựa trên mong muốn của du khách để từ đó đem sản phẩm du lịch ra thị trường sao cho phù hợp với mong muốn của thị trường mục tiêu, thu nhiều lợi nhuận cho tổ chức du lịch đó.
Theo cẩm nang marketing và xúc tiến du lịch bền vững của Việt Nam” do Fundessco biên soạn và sản xuất: Maketing du lịch là một quá trình trực tiếp cho các cơ quan, doanh nghiệp xác định khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng, ảnh hưởng đến nguyện vọng và sáng kiến khách hàng ở cấp độ địa phương, khu vực quốc gia và quốc tế để doanh nghiệp có khả năng thiết kế và tạo ra các sản phẩm du lịch nhằm nâng cao sự hài lòng của khách hàng và đạt được mục tiêu đề ra... CÒN TIẾP
CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH HÀNG NGA
Địa chỉ: 660 Phan Văn Trị, P.10, Q.Gò Vấp, TPHCM
Email: Hangngatravel@gmail.com
Hotline: 0909909872
Xem thêm